Thứ Bảy, 7 tháng 4, 2012

BÙA


Cách dùng bùa!!!!!!!
http://www.huyenbihoc.com/FWThumbnails/CAU%20TRUC%20MOT%20DAO%20BUA%201-thumb.png


              Bởi công dụng của mổi đạo bùa khác nhau , nên cách dùng được có loại như sau , ta phải dùng đúng cách thì bùa mới phát huy được sự công hiệu của nó :

          1.- Đốt bùa  : Tức nghĩa là đem bùa đi đốt thành tro , chú ý trong lúc đốt , cần đốt bắt đầu từ dưới đuôi của bùa , nếu bùa được xếp lại thành hình kiếm lệnh trước khi đốt thì công hiệu càng tăng lên . Nên biết rằng , lá bùa khi đốt thành tro , thì tro của lá bùa vẩn còn giữ giá trị tồn trử khí trường và tín hiệu trị liệu , và có tính âm dương nữa .

          2.- Đeo bùa  : Tức là xếp lá bùa lại và đeo trên mình , đa số xếp bùa theo hình bát quái , sau đó dùng bao ni lon plastic hay vải bao quanh hay may lại mà mang hay đeo trên mình . Khí trường và tín hiệu của lá bùa mạnh thì có thể công hiệu trong sáu tháng hoặc vài năm sau .
            3.- Dán bùa : Tức lấy lá bùa nầy trực tiếp dán vào đồ vật , ngoài ra có một loại bùa thuốc dùng dán trực tiếp vào chổ bị bệnh hay đốt lá bùa thành tro rồi trộn với thuốc đông y dược mà dán vào chổ bệnh .

           4.-  Uống bùa : Đầu tiên bỏ lá bùa vào chén hay vào ly , xong đốt lá bùa thành tro , và đổ nước âm dương thủy vào , đợi cho tro lắng xuống , sau đó uống vào .Có loại dùng nước lạnh , có loại dùng nước nóng để uống .

           5 .- Nấu bùa : Tức đem bùa bỏ vào siêu nấu thuốc mà nấu ; có hai loại nấu bùa , loại thứ nhất là chỉ bỏ bùa và nước lạnh vào siêu mà nấu ,  có khi  nước bùa sẻ đổi màu , và nhiều khi có bốc mùa thuốc đông y dược nửa  ; loại thức hai là bỏ bùa và vài loại thuốc đông y dược vào chung trong siêu thuốc mà nấu .

           6.- Thoa bùa : Đầu tiên đem lá bùa đốt thành tro , sau đó hòa chung với âm dương thủy , tức nước giếng và nước mưa hay nước sương ; tay dùng kiếm ấn hay kim cương ấn để chấm nước tro nầy mà thoa khắp thân thể ; nên thường trước thoa ở đầu , sau thêm nước vào chén bùa để thấm nước bùa mà thoa và vổ nhẹ vào ngực và lưng ; có khi ta dùng loại phun  nươớc bùa vào chổ bị bệnh , bằng cách miệng ngậm nước bùa vào miệng và tay bắt kiếm ấn để ở miệng và vung kiếm ấn chỉ vào chổ bệnh mà vẩy và điểm , lúc đó miệng phải đồng nhịp mà phun nước bùa vào nơi kiếm ấn vừa điểm đến chổ đó .

         7.- Bùa dùng để rửa : Lấy lá bùa đem đốt thành tro , xong đổ nước âm dương vào , rồi lấy nước nầy mà tấm rửa , dùng xong đem đổ ở chổ trống không người hay đổ xuống ống cống củng được .

          8.- Nuốt bùa : Trực tiếp bỏ lá bùa vào miệng mà nuốt xuống bụng .
Như ý ngũ hành phù
Phù này tuỳ nghi sử dụng trong mọi việc. Sức luyện càng cao thì diệu dụng càng lớn. Từ khoán sưng trặc, khoán dời ăn, huyết vận cho đến chữa tà , trấn nhà ếm đất đều được.
Tuy nhiên, cũng như hốt thuốc, ít bao giờ người ta dùng độc vị, sử dụng với những công năng lớn thì các thầy thường phối hợp nhiều đạo phù với nhau. Gọi là “Như ý” vì chữ phù xoay chuyển trong ý muốn của thầy, chữa bệnh cũng được mà hại người cũng được.
Photobucket
Chú:
- NAM MÔ 5 VỊ NGŨ HÀNH TRỢ LỰC CHO ĐỆ TỬ
- NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT. 


HY VỌNG ĐÒI NỢI THÀNH CÔNG



Có một cách không vì tiền mà làm phá hoại tình cảm bạn bè, anh em, và người thân, khi đòi nợ.
Cho dù là một món tiền nhỏ, người đã mượn tiền không hề muốn trả cho bạn mặc dầu người đó có tiền, trong lòng bạn khó tránh khỏi vướng mắc.
Cách làm:
Buổi sáng sau khi thức dậy, hoặc buổi tối trước khi đi ngủ làm theo cách như sau: mỗi ngày tiến hành đều đặn 21 ngày. Tay trái kết thành ấn Kiết tường ( xem hình) đồng thờ đọc câu thần chú:
“ OM MA NI PA ME HUM” ( nam 7 lần nũ 9 lần) và “MẸC MẸC MẸC MẸC MỆT TỐ NÓ Ế TẸC Á Ú SA”( nam 7 lần nữ 9 lần).
Khi đọc chú đồng lúc  nghĩ đến hình bóng người  đó đem tiền đến trả cho mình.


PHƯƠNG PHÁP CHIÊU TÀI LỘC
PHƯƠNG PHÁP BÍ MẬT ĐỂ CHIÊU GỌI TÀI LỘC ĐẾN CỬA HÀNG BUÔN BÁN CỦA MÌNH
Của Đạo Gia Mao Sơn Phái
生意招財密法

Đầu tiên chuẩn bị một số ít bột Trân Châu 珍珠粉 ( mua ở tiệm thuốc bắc ) trộn vào đấy một chút muối ăn 鹽巴để tất cả vào một cái dỉa sạch và đặt trên bàn hướng ra cửa chánh .

Chọn ngày có trăng tròn , vào khoảng 12 giờ nửa đêm . Miệng niệm mật chú sau đây 108 lần để gia niệm tức sên phép vào vật cúng tế là bột Trân Châu đả được trộn muối :

Mật Chú Hán Việt : Sanh Ý Chiêu Tài Bí Chú –


Cẩn thỉnh :


Thiên linh linh – Địa linh linh .

Mao Sơn Pháp Chủ hiển chánh linh.
Điều đáo đàn lai thi pháp.
Thi phù dùng pháp náo phân phân .
Cấp đới ngủ phương ngủ lộ khách nhập môn lai .
Sanh ý vĩnh hưng niên niên vượng .
Ngô phụng Mao Sơn pháp chủ sắc .
Thiên binh hỏa cấp như luật lệnh .

Bản chử Tàu :

(生意招財秘咒)

謹請天清清。

地靈靈。
茅山法主顯真靈。
調到壇前來施法。
施符用法鬧紛紛。
急帶五方五路客人入門來。
生意永興年年旺。
吾奉茅山法主敕。
神兵火急如律令

Dịch ra Kim Văn , văn xuôi của Mật Chú :


Chú ngử cầu tài làm ăn phát đạt .


Kính Thỉnh :


Trời đất linh thiêng

Mao Sơn Sư Tổ hiển linh
Giáng lâm làm lể trước đàn
Cùng vẻ bùa , dùng phép để
Nhanh nhanh dẩn khách hàng
Từ năm phương năm lối
đi vào cửa hàng của tôi ( tên :......................) mua hàng hoá
( Tùy ngành nghề mà thay đổi cho thich hợp )
Để mổi năm cửa hàng ( công ty ) của tôi
luôn mua may bán đắc cùng phát tài ........
Thần binh hỏa cấp như luật lệnh ...


Sau đó dùng vải đỏ bao lấy bột Trân Châu có trộn muối đả được gia niệm 108 lần , và gói lại kỷ càng . Xong treo nó lên trên trước cửa hàng , thì lộc mua bán sẻ đắc khách hàng và tài lộc sẻ đến .


Chú ý :

Cần tắm gọi sạch sẻ và áo quần chỉnh tề trước khi làm lể . Khi đọc mật chú cần thành tâm và tuyệt đối tin tưởng vào từng ý nghĩa câu chú mình đang đọc , nếu có thể trong lúc đọc chú trong tâm , quán tưởng , tưởng tượng như thật ; là có Mao Sơn Sư Tổ giáng lâm , đang làm phép trước đồ cúng lể cầu tài lộc và sau đó có nhiều khách hàng từ mọi nơi ùn ùn kéo đến ai củng muốn vào cửa hàng để mua hàng và ra vào tấp nập .....


Phân tích huyền cơ của

PHƯƠNG PHÁP BÍ MẬT
ĐỂ CHIÊU GỌI TÀI LỘC ĐẾN CỬA HÀNG BUÔN BÁN CỦA MÌNH
Của Đạo Gia Mao Sơn Phái

Các bậc Cổ Đức đắc đạo ngày xưa , đã nắm được chìa khóa tâm linh của nhân loại và các trường lực tâm linh được tồn tại từ ngàn xưa trong vũ trụ , các yếu tố nầy có sự kết hợp , kết nối , liên hệ và cùng tương sinh tương thôi với nhau , để tạo thành một Thiên Cơ cho sinh hóa của vạn vật , vận hành miên viển không chấm dứt ..........

Vì thế , nên các bậc Cổ Đức đắc đạo nầy , đả kết hợp các yếu tố tâm linh và các trường lực nầy nầy lại với nhau thành một công thức khoa học tâm linh , được biểu hiện dưới các nghi thức , lể lộc , cầu đảo , phẩm vật .... thường thấy ngày nay trong các sinh hoạt tôn giáo , phong tục tập quán , đạo đức và tinh thần của mọi người trong xả hội .
Tâm linh , tinh thần và thân thể của mổi cá nhân , trong lúc cầu xin hay làm lể ...., khi tâm thân của họ được hợp nhất , do lòng thành khẩn cao độ , sẻ tạo thành một hình tư tưởng rất mạnh mẻ , hình tư tưởng nầy sẻ phóng phát ra từ người cầu xin và có thể tụ charge vào các phẩm vật hay phù lục , giống như ta quay phim video vậy , nhưng phim video có thể chiếu lại trên màn hình của TV , còn những thông tin đã được thảo chương của hình tư tưởng nầy , được sên vào phù lục hay phẩm vật nầy , sẻ tỏa ra và được in ấn hay thu nhận vào phần tiềm thức của khách hàng đi ngang qua và sẻ được biểu hiện ra thành hành động , là họ sẻ vô tình một cách cố ý , là phải đi vào cửa tiệm của người cầu xin để mua hàng vậy ...; nói cách khác là các phẩm vật nầy hay phù lục được thảo chương hóa , do hình tư tưởng trong lúc xuất thần , do lòng thành của người cầu xin tạo ra , được lưu trử bên trong , và phẩm vật phù lục nầy được treo trước cửa hàng . Từ đó , giống như một đài phát thanh , nó phát sinh ra hiệu lực vô hình , phóng phát các trường lực có kèm theo thông tin mong muốn , mọi người phải vào mua hàng của cửa tiệm của người làm lể , sẻ đi sâu vào bên trong , phần vô thức của mọi người chung quanh hay những ai đi ngang qua cửa hàng , từ đó tạo thành một sự thôi thục , thúc đẩy họ đều phải đi vào mua hàng hóa của người cầu xin mua may bán đắc nầy ; còn nói theo mặc tiêu cực của hiện tượng nầy , thì nó cũng giống như người bị hậu thôi miên , làm theo những điều mà người thôi miên , đả cấy thông tin vào tiềm thức của họ lúc trước và họ sẻ hành động đúng như vậy , sau khi họ thức dậy , mà họ không biết và họ thực hiện điều nầy một cách tự nhiên vậy .
Đương nhiên , thông thường khi người làm lể cầu xin , lòng thành không cao hay có lòng thành , nhưng không hội đủ các yếu tố tâm linh theo công thức huyền học của Cổ Đức , nên không thể sên thông tin mong muốn phát tài mua may bán của mình vào Bùa hay phẩm vật , nên bùa không linh nghiệm vậy ; còn các vị Chuyên gia Tâm linh hay Pháp Sư thì nhờ có tu hành , tu tập nên định lực và linh lực của họ có hỏa hầu cao , nên việc cấy hay sên thông tin vào bùa thường có hiệu lực và linh nghiệm hơn vậy .........


Bản chử Tàu .


生意招財密法

首先準備上好的珍珠粉少許,
加入一些鹽巴,
擇一天月圓的日子,
於晚上十二時.摧唸秘咒一百零八遍,
將預備的開運物品用紅布包起來,
掛在生意場所的大門上方,
即可另生意興隆。

(生意招財秘咒)

謹請天清清。
地靈靈。
茅山法主顯真靈。
調到壇前來施法。
施符用法鬧紛紛。
急帶五方五路客人入門來。
生意永興年年旺。
吾奉茅山法主敕。
神兵火急如律令


Bùa trừ tà(2)
Trong hiện tại có những trường hợp không thể dùng một loại bùa mà khắc chế được tà , nên phải dùng nhiều loại để khắc chế, tiếp theo đây tôi giới thiệu với các bạn bùa trị tà của Quang Thánh.



 

Bùa trừ tà (1)!!
Phép trừ tà của phật tổ, có rất nhiều chữ, như dùng mang theo người. đốt uống, đánh tà, và trấn ếm khu vực có tà, lần lượt giới thiệu để các bạn nghiên cứu.




Bùa chú và công dụng
Bùa chú xuất hiện trên thế giới từ lâu và khởi đầu từ những vị chân tu có ý đồ nghiên cứu tìm hiểu và thực hành bùa chú với chủ đích cứu đời, cứu người.
           Từ ngàn xưa, bùa chú đã xuất hiện ngay cả trong những kinh sách của nhiều tôn giáo. Phần lớn các bùa chú này nhằm mục đích để cầu an, giúp cho thân tâm, gia đình yên ổn. Ngoài ra nhiều bùa chú con giúp để trị bệnh, trừ tà, phá bùa yếm đối... Những bùa chú này do một số lớn những nhà nghiên cứu về hiện tượng siêu linh huyền bí tìm ra. Một số bùa chú còn được tìm thấy do những tài liệu cổ từ  Mật Tông truyền lại. 
         Những người Trung Hoa, Đài Loan, Hồng Kông thường biết khá nhiều bùa chú mà theo Bí tàng của ông Trương Thiên Sư thì có rất nhiều bùa trị bệnh giúp gia đình an vui, mua may bán đắt, cầu tài, an thai, trừ ác mộng, hộ thân. .. Tại Ấn Độ , các tư liệu  xưa cổ cho thấy' tôn giáo lâu đời nhất ở xứ này là tôn giáo mà người Aryen tin theo từ dân tộc Naga. Người Naga thờ vô số thần trong đó có cả thần nhân đạo từ bi và cả ác thần; ác thần thường gieo tai họa nên họ phải dùng các phương thuật để giải họa.          
           Theo nhà viết sử nổi danh William james Durant thì những phương thuật này phần lớn là những bùa chú hay những Thần chú được tìm thấy rất nhiều trong kinh ATHARVA ~ VEDA. 
          Ngày xưa một số lớn người ấn rất quý trọng những gì viết trong kinh nầy . Họ thường đọc Thần chú để được có con tốt lành, để sinh dễ dàng mẹ tròn con vuông, để tránh tai nạn bệnh tật, để ngủ yên giải, chống lại ác tâm của kẻ thù hoặc làm nản lòng chúng... Cũng theo William James Durant thì trong kinh Atharva - Ve da đôi khi còn có những câu thần chú mà lời lẽ rất mạnh mẽ dữ dội và đôi khi man rợ để cho phụ nữ đọc khi nào muốn chống lại tình địch. 
                              Atharva - Veda là một trong bốn loại kinh Veda giá trị và thiêng liêng nhất xứ Ấn gồm có các tri thức về các thần chú với các Mạn - đà - La, với Phạm Chí, những câu thần chú, những lời cầu nguyện.
          Theo các nhà nghiên cứu nổi danh ân Độ thì có những Thánh ca giá trị đầy năng lực nhiệm mầu trong các kinh Veda . Về xuất xứ thì theo họ, đã xuất hiện cách đây từ 6 nghìn đến 10 nghìn năm trước công nguyên.
         Ngày nay phần lớn người Trung Hoa và Việt Nam thường hay dùng Bùa của Trương Thiên Sư .
                Nhiều sách vở của Trung Hoa ghi chép, in lại những bùa cùng phương cách ứng dụng của một Đạo Sĩ  nổi danh ở Trung Hoa tên là Trương Thiên Sư ,  như cuốn sách xuất  bản ở Hồng Kông: Bùa- Bí tàng của Đạo Sỉ Trương Thiên Sư ,với những Bùa trị bệnh, giúp gia đình bình an .
           Sau đây là hình ảnh dạng thể của một số đạo  bùa và công dụng theo thứ tự : 

  
1 ) Bùa giúp gia đình an vui .
2) Bùa giúp vợ chồng hòa hợp .
)) Bùa giúp hợp ý khi giao tế, tiế xúc , xả giao .
4) Bùa may mắn.
5 và 6) Bùa giúp an thai và bùa ngăn chặn con ranh 
con lộn ( Phạm thái thần ) .
7) Bùa hộ thân, trừ tà giải bệnh.
8) Bùa hộ thân khi gặp kiện tụng.
9) Bùa giúp phát đạt về thương mãi , buôn bán .
1 0) Bùa trị khỏi chứng con tre khóc đêm.
1 1 ) Bùa trừ ác mộng
12) Bùa trị bệnh nhức đầu, hồi hộp lo lắng , ăn ngủ
không yên .
      
               Trong thiên khảo cứu về Bùa chú đăng ở báo Đại Chúng từ các số 223 trở đi cũng có đăng một số bùa lưu truyền cho hậu thế của các Đạo sĩ chuyên trị bệnh , như : (A) Bùa trị bệnh suyển. (B) Bùa giải trừ nghiện thuốc hút.(C.) Bùa giúp trẻ con dứt sữa nhanh. (D) Bùa trị chứng đau thận, đau lưng. (E) Bùa trị mắc xương.
                           
               Ngoài ra còn những loại bùa để hộ thân khi đi đường trừ ma quái, trộm cướp chận đường (là hay bùa bảo vệ nhà cửa( G ).
          Về cách trị liệu , tư liệu cho biết sơ lược như sau; mỗi loại bùa có cách sử dụng riêng biệt , nếu thực hiện không đúng cách sẽ không đem lại kết quả và muốn tốt phải do người có chân tâm thực hiện. Ví dụ: Con trẻ khóc đêm hoài khó dứt thì dùng Bùa giải gọi là bùa khóc dạ đề. Bùa này phải viết trên giấy màu vàng bỏ vào trong gối kê đầu của trẻ. Khi viết phải tập trung tư tưởng cố gắng nín thở và tâm niệm với năng lực tâm thần liên kết với sức mạnh siêu linh để tạo một huyền lực vào trong đạo bùa. Trường hợp người có thai muốn được an thai , cần có đạo bùa an thai đeo vào người ( xếp bỏ trong cái túi vải màu vàng đeo vào cổ hay để trong túi áo ).
        Trường hợp dùng bùa giải trừ nghiện thuốc hút: trước tiên phải tập trung tư tưởng và nghĩ đến sự tai hại của hút thuốc về các lãnh vực trong cuộc sống và cả bản thân mình. Tiếp đến vừa tập trung tư tưởng vừa vẽ lên giấy vàng đạo bùa chủ trị nghiện thuốc hút. Nhớ cần phải nín thở để họa cho xong đạo bùa ( trước đó nên tập cho thuộc nét cho rồi hãy thực hành). Người xưa theo phương cách là viết bùa xong đốt thành tro hòa với một chút Hoàng Liên Sơn sắc ra nước để uống. Tự nhiên sẽ cảm thấy không còn thích hút thuốc nữa. Ngày nay  y, vì sợ khi hòa tro với  nước sắc ấy uống vào đôi khi có thể hại về mặt hóa chất nào đó chưa phối kiểm được ; nên về sau có người dùng một ly nước lọc đặt trên bàn rồi sau khi vẽ bùa xong lại tập trung tư tưởng, đốt lá bùa rồi huơ đi quơ qua quơ lại  lại trên ly nước cho đến khi bùa cháy hết. Khi đó uống hết ly nước lọc với tâm niệm rằng từ nay mình không còn hút thuốc nữa.             
           Theo các nhà nghiên cứu âu Châu sau khi quan sát tận mắt cách chữa trị này của một số đạo sĩ ở Hồng Kông áp dụng từ Bùa Chúc Do ( đã giúp giải được bệnh ghiền thuốc hút cho một người cai thuốc ở Cửa Long) thì kết quả đạt được phần lớn là do bệnh ghiền thuốc không phải là bệnh của thể xác mà là bệnh tâm lý. Tuy nhiên về sau khi theo dõi những phương cách trị bệnh khác theo Bùa Chú thì các nhà khoa học này mới thật sự kinh ngạc và họ đang thành lập một hội đoàn các khoa học gia nghiên cứu về năng lực của Bùa Chú.
           Cũng tại thành phố Của Long ( Hồng Kông ) các nhà khoa học và nhà báo đã có lần chứng kiến phương thức chữa trị mắc xương bằng Bùa Chú rất hiệu nghiệm như sau:
         Hôm đó là ngày 19 tháng 6 năm 1956, một nhân vật cao cấp trong chính quyền Hồng Kông bị mắt phải cái xương gà. Cái xương nhọn rất nguy hiểm. Các bác sĩ cho biết cần phải mổ ở cổ họng và vì cái xương nằm ở vị trí sát thanh quản, nếu mổ sẽ ảnh hưởng lớn đến giọng nói hoặc có thể làm tắt tiếng ,  may thay lúc đó có một Đạo sĩ có học thuật về bùa chú Chúc Do và Trương Thiên Sư đã bảo đảm lấy xương ra khỏi cổ họng cho nạn nhân mà không cần phải mổ. Trước mắt các nhà khoa học và báo giới vị Đạo Sĩ này chỉ cần lấy cái tô đổ đầy nước lã vào rồi vừa niệm chú vừa  lấy ngón tay vẽ lên trên mặt tô nước một đạo bùa. Kế đến vị Đạo sĩ yêu cầu nạn nhân quay mặt về hướng mặt trời mọc cố gắng tập trung tư tưởng và nghĩ đến cái xương đang mắc trong cổ họng sẽ phải rơi ra , xong hít khí trời vào ba lần. Sau động tác này, vị Đạo sĩ trao tô nước cho nạn nhân bảo cố súc miệng nhả ra. Lạ lùng thay, tự nhiên cái xương rơi ra theo.Trong tài liệu đăng trên báo Đại Chúng thì phương pháp chữa trị có hơi khác, có lẽ tùy theo từng loại xương to, nhỏ. Theo phương thức này thì ( có lẽ áp dụng cho loại xương nhỏ ít nguy hiểm ) : Khi một người bị mắt xương, dù là xương cá hay xương gà hay bất cứ xương thú gì. Bạn hãy lấy một chén nước lã, hoặc trà cũng được dùng ngón tay vẽ kiểu Bùa trên đây ( vẽ cho thật đúng ) trên mặt nước đồng thời miệng mềm câu thần chú sau đây:
 Chén nước này hóa ra biển lớn phía Đông. Cổ họng hóa ra đầm sâu vạn trượng, chín con rồng quay về động. Ngã phụng Thái Thượng Lảo Quân, cấp cấp như luật lịnh. Xong bạn bảo người bị mắt xương , quay mặt về hướng Đông, hít khí trời vào họng ba cái, rồi uống chén nước.
            Phương pháp trên đây đã thực nghiệm rất nhiều lần, đều hiệu nghiệm. Chén nước chưa uống cạn xương nơi cổ họng đã tan.
               Loại bùa bảo vệ, giữ gìn nhà cửa được yên ngăn chận không bị hỏa hoạn, bảo lụt, trộm cướp...Gọi là bùa. Bùa này phải được chính các Đạo sĩ có năng lực về họa kèm với lời chú , dán trên đầu cột cái của căn nhà).
              Có nhiều bùa giải trừ tai nạn bệnh tật gồm nhiều bùa khác nhau như Bùa trừ ác mộng của Đạo sĩ Trương Thiên Sư Bùa này vẽ thành 12 lá dán trên đầu nằm theo các ngày Tý, ngày Sữu, ngày Dần, ngày Mão v...v...
         Riêng về Bùa trên, may mắn cho giao dịch buôn bán thì dùng một miếng giấy vàng vẽ Bùa số 9 ( Xem hình ) vào túi vải màu vàng, may lại đeo vào người hay để vào túi áo trên. Dĩ nhiên muốn có kết quả phải được một pháp sư Đạo sĩ có thục lực vẽ bùa kèm chú mới tốt.
Có nhiều loại bùa sau khi họa xong còn phải được đốt dùng tro pha với nhiều chất đặc biệt để uống , những phương thuật này phải do chính các Đạo sĩ thực hiện, người thường không hiểu rõ chi tiết pha chế không đúng cân lượng cũng như dùng khác chất sẽ vô cùng nguy hại. Nói tóm lại, các loại bùa muốn linh nghiệm phải do các bậc cao minh đứng ra họa bùa đọc chú. do đó người thường  không lạ gì khi thấy nhiều sách viết về bùa chú và in cả các hình ảnh bùa chú đôi khi cả phương thức thực hiện mà người xem mua về làm theo lại không thấy có kết quả , đôi khi còn tai hại và nguy hiểm.
       Nhà nghiên cứu về các pháp thuật siêu hình là Ngộ Thường Tử đã viết trong báo Khoa Học Siêu lệnh xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1990 đề tài thuộc lãnh vực này gọi là Man-đa-ra. Theo tác giả Ngộ Thượng Tả thì Man- Đa-ra tốt là lệnh Phù. Đó là những pháp thuật để bảo vệ chánh pháp, ngăn ngừa ác quỷ. Người tu theo đạo Man- Đa-ra giáo (  Mật giáo, Chôn ngôn tông ) gom vào đó sức linh của Phận Thánh, Tiên, Thần để trừ tà ma, ác quỷ, bảo hộ sinh mệnh, nhà cửa, đình chùa lăng miếu. Đây là một pháp môn tối cổ và đặc biệt của người Tây Tạng.
Pháp môn này gồm có:
Linh phù ( Man-đa-ra ), Thần chú Dharani và Pháp ấn ( Mudrâ ).
     1 ) Linh phù là lá bùa tính được họa trên giấy hay trong hư không có công dụng chữa bệnh, trừ tà ma...
2) Thần chú là những ngôn từ bí mật có thể đọc thành tiếng hay đọc thầm trong miệng, hoặc chỉ nghĩ đến trong tâm ( gọi là Mật thanh thần chú hay Mật tâm thần chú ).
Công dụng của Mật thanh thần chú là để biết rõ về tiền kiếp của người khác hay của chính mình.
3) Pháp ấn, theo Ngộ Thường Tử thì Pháp ấn ( Mudrâ)
là biểu tượng, phù hiệu giống các thủ lệnh của quân đội ( thường biểu lộ qua tay, ngón tay... ). Có nhiều cách bắt ấn tuỳ theo công dụng ví dụ bắt ấn trừ tà ma yêu quái gọi là Phục ma ấn, truyền đạt năng lực, tư duy, giác ngộ qua tâm não gọi là Tâm ấn...
Nhà nghiên cứa về sự vi diệu kỳ bí của Man-đa-la là Meita Copony đã cho rằng , chỉ cần nhìn sơ cấu trúc của một biểu tượng về Man-đa-la cũng thấy sự huyền diệu lạ lùng. Thứ nhất là vùng trung tâm nơi phát nguồn những tia sáng hào quang rồi đến vùng chu vi, ngoại biên của vòng tròn là những dạng thể và ánh sáng cùng màu sắc của những gì có tính cách huyền bí thuộc năng lực  siêu linh, nơi phát sinh ra tất cả mọi sự sống, mọi vật chất tồn tại trong không gian và thời gian...Nguồn sáng lung linh tuôn tràn từ trung tâm điểm của Man-đa-la xoay vòng chuyển hóa từ trong ra ngoài, tỏa ra muôn vạn hướng rồi lại chuyển động quay trở về chốn tận cùng thâm sâu của trung tâm điểm của Man-đa-la. Trung tâm điểm ấy được xem như là điểm khởi đầu và chấm dứt. Man- Đa-la được xem như là cái bánh xe mặt trời. Man-đa-la có mặt khắp nơi trong vũ trụ .
          Hai nhà nghiên cứu nổi tiếng về Man-đa-la là José và Miriam Arguelles, trong những tác phẩm viết về đề tài này đã ghi nhận rằng:" trong vũ trụ đều có dạng thể của Man-đa-la. Từ những có thể của bào tử, loài phiêu sinh ( Plankton ) đến cả bông hoa còn nụ hay xoè nở ... Chính con mắt người  và thú cũng là hình ảnh của Man-Đa-la...
           Trong cuốn Mandala của José và Mirian Arguelles xuất bản năm 1972 tại Hoa kỳ ( Shambhala Publication, inc-72 1 ) có trình bày một sơ đồ rất kỳ diệu sơ đồ quy tụ mọi biểu tượng của các lý thuyết Tôn giáo, Tâm linh siêu hình  gọichung là Man-đa-la của nhịp chu kỳ (tuần hoàn) sinh hóa .
           Bùa Thái Công :
       Gọi là bùa THáI CÔNG vì loại bùa này có ghi chú rõ ràng tên của một nhân vật có khả năng trị yêu quái. Nhân vật ấy chính là Khuông Tử Nha hay còn gọi là Khuông Thái Công xuất hiện vào thời nhà Châu ( Trung Hoa ) . Khuông Thái Công thường có một bửu bối đặc biệt gọi là Roi Đả Thần. Roi này mỗi lần đượcc Thái Công vung ra là Thần tiên đều sợ và bị khuất phục. Do đó, bọn ma quỷ yêu quái khiếp sợ roi đả thần vô cùng. Chính vì lẽ đó mà vào ngày đầu năm ở Trung Hoa cũng như ở Việt Nam thường có tục lệ dán bùa trấn yểm ma quỷ trước cửa nhà bằng bùa Thái Công.
     Bùa Thái Công có được vẽ trên một tờ giấy vẽ 5 vạch ngang 4 vạch dọc. Phía dưới đề chữ Khương Thái Công tại thử ( có nghĩa là Khuông Thái Công hiện ở đây ).
          Người Việt Nam ngày xua gọi bùa này bằng danh từ rất bình dân là Bùa Tứ Tung Ngũ Hoành ( ngang dọc ) Bùa này cũng còn thấy xuất hiện ở ngọn cây nêu vào dịp Tết. Bùa này không vẽ mà đan bằng tre. Tre được lướt, vót thành những dải dẹp đan ngang và dọc , chừa những phần cuối xòe ra.
             Treo lá Ngải trừ ma quái :
ILá ngải cứu là một loại lá có nhiều công dụng về dược tính như làm dịu không khí nóng bức ,lọc sạch không khi giúp sự hô hấp được thuận lợi.
          Vào ngày Tết Đoàn Ngọ tức là ngày mồng 5 tháng 5 , người Việt Nam thường có tục lệ treo chùm lá Ngải ở trước nhà để trừ tà,  ma quỷ, đuổi bênh tật.
        
Bùa trừ ma quỷ của trẻ con :
      Bùa nầy trong dân gian còn gọi là bùa  Ngủ sắc. Trẻ con khi đeo bùa này vào cổ, trước ngực sẽ
có được nhiều lợi điểm là không khóc đêm, ngủ không giật mình, không sợ sệt, không bị ma quỷ quấy phá. Ngoài ra Bùa Ngủ sắc còn khiến các loài rắn, rết, nhện độc tránh xa. Bùa Ngũ sắc gồm các thứ như sau:
- Các hạt Mùi : Có mùi rất thơm , kỵ gió nắng hay trở trời , được cho vào một cái túi vải màu vàng hình vuông may lại bằng chỉ ngủ sắc. Khi may, để chừa lại ở các góc những tua chỉ màu ( để ở ba góc còn góc thứ tư thì buộc chỉ để đeo chung với những thứ khác )
- Các thứ Quả: hồng, na, ớt và khế. Đặc biệt ớt phải chọn ớt có lẫn màu xanh, đỏ, vàng. Riêng khế thì chọn mỗi khía có những đốm màu khác nhau càng nhiều càng tốt.
- Hồng Hoàng : Tất cả cho vào những túi nhỏ bằng chỉ ngũ sắc đeo thành một chùm trước ngực đứa bé. Các thứ quả thường để cho khô, teo lại để không còn bị lên mốc, hư thối.
        Ngày nay, tại Việt Nam không riêng gì các vùng thôn quê mà ngay cả ở thành thị cũng vẫn còn tục lệ trẻ con đeo bùa ngũ sắc để trừ tà.
  
  
                                               TRÙ YỂM – THƯ YẾM – BỎ NGẢI – BỎ BÙA
  
        Trù yểm hay trù ếm là loại ma thuật của những thầy Pháp, phù thủy, đạo sĩ dùng để làm kẻ khác phải đau ốm, gặp điều nguy hiếm, không may. Thư ếm hay bó ngái cũng vậy. 
          Nhiều người cứ tưởng rằng chỉ ở Trung Hoa, Việt Nam và nhất là ở vùng Sơn Cước, Mạn ngược là thường xảy ra hiện tượng thư ếm, bỏ bùa, ngải. Nhưng thật sự nhiều nơi trên thế giới đã có từ lâu sự kiện này. Ở Philippine ( Phi Luật Tân ) Indonesia ( Nam Dương quần đảo , Mã lai á, Miến Điện, Lào, Cam bốt... và xa hơn nữa là Phi Châu, Úc Đại Lợi) .Theo nhà nghiên cứa Derek và Juha Parker chuyên về Huyền Thuật và Ma Thuật thì vùng Nam Phi nhất là ở Dahomey, Be nin và Tây Nam Cameroon thường có nhiều phù thủy chuyên trù yểm thư yếm người. ở Su dan, Zavre, Brazil, ở Haiti và ngay cả Âu Châu xưa cổ nhất là vùng Bắc âu cũng có những trò ma thuật ghê gớm này.
         Tác giả Toan ánh đã viết về vấn đề trù ếm như sau: " Có nhiều người thù ghét nhau, không thể đường hoàng làm gì nhau được nên thường nhờ các thầy Ngải, thầy Pháp, thầy Tự trù ếm kẻ thù. Có khi bỏ bùa làm hại, có khi dùng ngải để trù ẻo khiến cho người bị bỏ bùa, bị trù ẻo sinh đau ốm, bệnh tật. Trong những trường hợp này, gia đình người bệnh phải tìm các thầy Ngải, thầy Pháp cao tay để hủy bỏ bùa và phá ngải mới khỏi được bệnh.
    Cũng có khi cầu Thần Thánh chỉ nơi bỏ bùa, lấy bùa đi hoặc xin Thần Thánh ra tay trừ Ngải.
Có nhiều người bị thư, nghĩa là bị người thuê các đồng bào Mường hoặc Thượng để thư vật gì vào thân thể. Phải tìm cho được người thư ấy, để họ kẻo thư về thì mới khỏi bệnh được. Có người bị thư quả trứng, miếng mảnh sành, bó giẻ... vào trong bụng không sao lấy ra được. Theo những lời thuật lại thì dù người bị thư có được bác sĩ giải phẫu lấy vật thư ra, rồi sau đó vật thư cũng vẩn trở lại vào trong người nếu người thư chưa kéo thư về " ( Toan Ánh - Phong tục Việt Nam, Trang 473 và 474 - Sài Gòn 1969)
          Vẽ bùa yểm chú còn thấy trong những đám ma.
Lúc đám tang chuyển từ nhà ra đường người xưa tin rằng ma quỷ sẽ lợi dụng lúc có người chết, cảnh trí đám tang nhuốm vẻ thê lương, u ám sẽ dễ bề len lõi, nhập vào quấy phá. Vì thế để có thể dọa nạt, cảnh cáo ma quỷ, người ta dùng tre đan hình nhân và phất giấy màu vẻ mặt dữ tợn để tạo những thần tướng oai phong tay cầm gươm giáo ngực có dán bùa xua đuổi ma quỷ. Thường người ta đan hai hình nhân bằng tre dán giấy cho hai người nắm đi đầu đám tang. Hai biểu tượng ấy được gọi là phương tướng. Để linh hoạt hơn, nhiều nơi thay hai hình nhân bằng hai người thật được vẻ mặt dữ tợn hay đeo mặt nạ có răng nanh, mắt trợn, áo quần ngũ sắc có đeo bùa trừ, yểm xua đuổi ma quái yêu tinh. Hai người này sẽ dẫn đầu đám ma vừa đi vừa múa gươm giáo.
Có khi hai Phương Tường bằng người thật này lại được tăng cường thành 4 hay 5 người. Lúc bấy giờ đám ma sẽ được xem như bảo vệ và dẫn đạo bởi các vị Thần, Tướng. Có tất cả 4 vị tướng và một vị thần. Những người này phải lo ăn mặc áo quần đầy màu sắc có dán bùa phép, phải biết múa gươm giáo và hát hay đọc chú để trừ yêu đuổi quỷ cùng loài ma quái muốn xâm nhập đám ma lúc đi đường.
         Ngày xưa người ta thường thuê những người trong nhóm phường hát, các đoàn hát bội để làm các Thần Tướng vì cách thức nhập vai của họ rất đúng điệu.
              Những người này khi đóng vai Thiên Tướng, Thần Hổ đều múa đao, kiếm, nhảy múa, đọc chú trong suốt thời gian đám ma đi trên đường tới mộ huyệt. Lúc đám ma tới mộ huyệt, bốn Thiên Tướng và Thần Hổ bắt đầu đi quanh huyệt vừa múa gươm giáo vừa hát và đọc chú, vẽ bùa để trấn yểm ma quỷ, đuổi chúng ra khỏi huyệt đang để trống ( vì có nhiều ma quỷ ẩn núp sẳn dưới huyệt chờ khi hạ huyệt con cháu kêu khóc về người chết, chúng sẽ vào quan tài để nhập vào xác người chết).
       Trong cuốn Phong Tục Việt Nam, ở phần Tang Ma và ở đoạn mô tả về Nghi Trượng đi đường của đám ma (trang 52 1 - 1 969) , soạn giả Toan ánh đã trình bày rất chi tiết về vấn đề này và cũng đã viết về các Thiên Tướng và Thần Hổ, những người đóng vai trị huyệt, xua đuổi ma quỷ như sau:
   Sau khi vẽ bùa yểm chú khắp nơi huyệt và chung quanh, năm người đóng vai trị huyệt này đều vội vã bỏ ra về, mỗi người đi một đường mà không ai trở lại con đường lúc đã đi. Tục tin rằng những tà ma, trùng quỷ bị xua đuổi ớ dọc đường cũng như ở ngôi huyệt, căm giận mấy vai phương tuồng, chúng sẽ họp nhau lại đón đường để trả thù .
       Những vai phường tuồng này, khi về đến nhà cũng phải vội vàng cởi bỏ quần áo, rửa mặt cho hết nét vẻ để trở lại người thường ngay, tránh sự báo thù của ma quỷ.
        Sự kiện vừa trình bày trên thật giả thế nào, quả thật chưa ai biết được và cho đến nay cũng chưa ai giải thích được rõ ràng. Tuy nhiên đã có nhiều lần xảy ra tai họa lạ lùng cho những người đóng vai Thiên Từng, Thần Hổ hoặc Phương Tướng. Anh Lê Văn Thành trú tại An Cựu-Huế năm 1949, đã từng sống bằng nghề giả làm Phương Tướng dẫn đầu đám ma doạ nạt ma quỷ. Một hôm đang trên đường về nhà, trời sẩm tối. Khi đi ngang qua một cây đa to lớn sum sê bên đường anh bỗng nghe một tiếng động, rồi từ trên cây đa rơi xuống một cái tổ kiến to bằng đầu người. Anh giật mình dừng lại nhìn kỷ thì cái tổ kiến ấy chuyển động và anh thấy như một cái đầu người có hai mắt và cái miệng sân hoáy đen ngòm đang nhìn anh.
Tự nhiên trong người anh nổi gai ốc, anh vội vã bước nhanh về nhà và từ đó anh cảm thấy ớn lạnh trong người không ăn uống gì được. Thế rồi , liên tiếp mấy đêm liền, vào khoảng giữa khuya anh đều mơ thấy những hình ảnh kỳ dị và những tiếng nói cứ lập đi lập lại bên tai anh:
- Mày phải bỏ ngay cái nghề mày đang làm đi, nếu mày dọa nạt, vẽ bùa, đọc chú xua đuổi chúng ta thì mày cũng sẽ bị chúng ta làm cho dở sống dở chết...
          Anh Thành đã thuật lại sự việt cho Thượng Tọa T.N.H. nghe và lúc đó Thượng Tọa đã góp ý như sau:
- Mọi sự tại tâm ? nếu tư tưởng con đã có những hình ảnh, ý nghĩ phát sinh từ những sự việc con làm thì cách hay nhất là con hãy từ bỏ cái nhân đi là xong. Cái nhân ấy là việc làm của con trước đó.
        Anh Thành nghe Thượng Tọa T.N.H. chỉ dạy, đã không còn nhận làm Phương Tướng nữa và sau đó anh đã hết bệnh. Về sau . khi  kể lại chuyện xưa ngày cũ và nhắc lại câu chuyện anh làm Phương Tướng ngày nào, anh Thành vẩn còn sợ
và cho biết thêm như sau: Lúc đó tôi có một ông chú ở trong Thành Nội gần cửa Thượng Tứ cũng thường đi làm Phương Tượng nhưng ông không bị ma quỷ hù họa như tôi. Khi thấy tôi sa sút xanh xao và nghe tôi kể lại câu chuyện gặp ma quỷ ám, ông thở dài nói : chú đã dặn cháu là đừng mặc đồ Phương Tướng về nhà sau khi xong việc theo đám táng nhất là về nhà nên đi đường tắt, đổi quần áo khác và đội nón che
mặt, nhưng cháu cứ ỷ mình là thanh niên chẳng ngán ai, kể cả ma quỷ', nên mới bị nó nhát đó .
                           Vì sao Bùa Chú trở thành bí truyền?
  
         Theo các sách về " Mật pháp " của Tàu thì Bùa Chú chỉ truyền cho những người có Đức, và người được truyền phải làm lễ tuyên thệ với Tôn Sư, với Thần Thánh. Không phải bất cứ ai cũng học được.
Vì sao? Vì người hiểu biết và sử dụng được Bùa Chú sẽ gây tai hại cho kẻ khác, nếu y có lòng ích kỷ tham lam, vì người biết bùa chú huyền thuật sẽ là " ngoại càn khôn " đối với xã hội nếu y có tà tâm.
       Ngoài việc lập đàn làm lễ tuyên thệ ra , người đệ tử được Tôn Sư truyền cho Bùa Chú còn phải thệ nguyện giữ đúng mười điều giới răng rất nghiêm nhặt. Chính vì mười điều giới răn này mà bực tầm thường thiếu Đạo Đức không sao theo nổi. Những điều kiện khe khắt ràng buộc người học Mật Pháp giống như một cuộc thi Đạo Đức rất gay go, thành thử không có mấy người theo học nó  cho đến nơi đến chốn , mà chỉ học được một vài món tầm thường mà thôi .
          Nhân xấu sẽ sinh Quả xấu. bởi thế, các vị đạo sư, pháp sư đứng đắn, hiểu rõ đạo lý nhân quả, không bao giờ dám dùng bừa chú để hại người. Trái tại họ dùng sự hiểu biết về siêu hình học của họ để giúp đo người khác.
    Rốt cuộc, Bùa Chú hay lời cầu nguyện, tất cả đều do tâm con người mà có. Cho nên nói rằng Vạn pháp Duy Tâm tạo là phải.
         Chính cái Tâm của bạn mới là Đệ nhất linh thiêng. Bạn chứa sẵn Tâm lành, bạn lại nghĩ việc lành. Nachẳng may bạn gặp việc rắc rối, bạn có ý muốn được giải nguy thoát khổ vì việc rắc rối đó. Bạn thành tâm cầu nguyện hoặc cầu sức Mẹ Maria , hoặc cầu Đức Quán Thế Âm, hoặc có thể vẽ Bùa .. Bạn sẽ thấy rằng ý bạn sẽ được kết quả... Bởi lẽ tâm lành của bạn là Nhân, còn Bùa Chú cũng như lời cầu nguyện là duyên. Nhân Duyên đó gặp lòng từ bi của các bậc siêu hình tự nhiên cảm ứng phát sinh kết quả.
Các nhà Đạo học đã nói:
- Nhất t Phù, Nhì Chú, Tâm Thần lực.
( Một là Bùa, hai là Chú, ba là Thần lực - Bởi Bùa,
Chú là do sức Tin mà có và Đức tin ấy lại đặt vào Thần lực của các bậc Siêu Hình. Ba cái đó hợp tất nhiên sẽ có sự kỳ diệu!
          Khi giải thích về 'lsức mạnh do Tâm tạo ra, nhà nghiên cứa Bùa Chú ấn còn cho biết:
- Tâm có thể biến thành sức mạnh.
- Tâm lý tập trung vào những nét của cá Bùa.
- Ngón tay tuỳ theo Tâm mà vẽ nên những nét bùa trên giấy, trên chén nước.Sẽ phát ra một thứ Điện từ lực.
         Miệng niệm chú khi trí óc tập trung tư tưởng, ý chí. Khi niệm chú, âm thanh cũng tạo ra Điện từ lực .Sức mạnh của Tâm, của tư tưởng, của Điện từ kết hợp lại thành một khối sức mạnh đặc biệt do Thân ( bàn tay) Khẩu ( âm thanh ) và ý ( Tâm, tư tưởng ) tập trung và phát ra. Từ nét vẽ của Bùa tới lời lẽ, âm thanh của câu chú đều nhằm tạo sức mạnh phối hợp của Thân, Khẩu, Ý .  Thần lực tức là Điện. Nói cách khác nó là Tâm Lực.
Bởi vì tất cả đều do Tâm mà ra. Tâm chuyển được vật là bởi Tâm phát ra Điện từ lực. Tâm, vật đồng một thể hay Nhất thiết duy tâm tạo chính là ý ấy.
Đã biết rằng Tâm có thể chuyển được Vật thì cũng biết rằng Vật có thể chuyển được Tâm. Những bùa yêu, bùa thương, bùa tạo giấc mộng đẹp... Đều phát sinh bởi lý đó.
         Những chữ Bùa, những câu Chú, những phép luyện, những bí thuật v...v... đều là sự diệu dụng của Chân Tâm. Mà Chân Tâm thì bao trùm khắp Thần, Thánh, Tiên, Phật, cho đến ma quỷ, chúng sánh, địa ngục, Thiên Đường, tất cả đều ở trong Chân tâm.Hể lòng ngay, chánh thì mọi sự đều ngay chánh, hễ lòng tà vạy thì mọi sự đều tà vạy . Hễ tâm bị tán loạn thì yếu ớt, không tác động được gì . Nhà Đạo học nhờ thấu rõ muôn vật đều là giả ảnh, từ chỗ không mà có cho nên Tâm không bị Vật hạn chế. Hễ tâm không bị vật hạn chế, ràng buộc thì Tâm hoàn toàn làm chủ Vật, diệu dụng vô cùng..."
             Thần Chú và Cầu Nguyện
               " Thần chú khác với cầu nguyện. Cầu nguyện là hạ mình yêu cầu kẻ khác kể cả thần linh.      
            Còn đọc thần chú là ra lệnh cho những lực lượng vô hình. Chính vì cái Tâm mình ngay chánh tự tin ở đạo đức ức của mình có thể làm cho quỷ thần kinh khiếp cho nên nhà Đạo Đức chế ra những câu chú có tính cách truyền lệnh. Ví dụ câu chú sau đây giúp sáng tai, nghe cảm được mọi sự họa phước sắp xảy đến. Câu chú này gọi là " Minh nhỉ chú ":
- Thiên Chi Thần quang, địa chi thần quang, Nhật nguyệt thần quang, nhỉ biên quang, chú chi nhỉ văn, chú văn nhỉ khai quang, thần thông nhập nhỉ, tốc chi nhỉ bàng, cấp cấp như Cửu thiên Huyền nữ luật lịnh... nhiếp.
          Đọc Thần chú là Tâm phát ra tiếng động tạo thành những điện ba ( sóng điện ). Hễ sóng điện mạnh thì cảm ứng những đường thẳng và đường cong phối hợp với nhau . Đường thẳng hợp thành góc cạnh biến ra những hình tam giác, tứ giác, lục lăng... hình tròn, hình thuần, hình cong, hình nón... và vũ trụ chỉ là những đường thẳng, đường cong phối hợp, biến hóa thành ra muôn hình vạn trạng (kỷ hà học). Điều này thấy rõ khi quan sát những hình ngôi sao, lục giác, những hình kỷ hà biểu tượng trong các tôn giáo hay từ những phương thuật vẽ bùa của người Ấn, người da đỏ, người Phi Châu, người Trung Hoa, người Âu Châu v...v... "
         Về sức mạnh của hình vẽ ( Bùa ) thì có hai loại bùa (phù). Một là những dấu hiệu gồm chứa cả một nguyên lý hợp với sự vận hành của Tạo hóa. Người Tây phương gọi là Pantacle. Như Thập tự giá của Thiên Chúa Giáo, cho chử Vạn của Phật Giáo, hình ngũ giác đen trắng của vua Salomon... Mỗi hình vẽ tuy có khác nhau nhưng cùng theo đúng một nguyên lý cả.
           Thập tự giá tượng trưng cái Tâm hướng về Thượng Đế tức là chân lý, là sức mạnh tạo nên sự sống.
        Chữ Vạn là chữ Thập bẻ gãy hai đầu nếu nhìn chung sẽ trông giống như Bánh xe Pháp luân lăn tròn từ bên phải mà đi , ấy là Thiện thắng ác, Trí Huệ tháng Si Mê, làm thành muôn Đức vạn Hạnh và tất cả muôn Đức vạn Hạnh ấy từ một Tâm mà tỏa ra.
       Hình ngũ giác của vua Salomon là hai hình tam giác, một trắng một đen chéo nhau. Trắng là Đức trí, đen là Si mê tà ác, trắng đi lên, đen đi xuống. Đi lên là ánh sáng là hướng về Thượng Đế toàn thiện toàn năng. Đi xuống là địa ngục, tối tăm. Khi hình ngủ giác ấy vận chuyển, lăn đi thì bất cứ phía nào cũng đều có một góc chỉ lên trên và hai góc còn lại làm chân đứng. Đó là Thượng Đế là Bản thể vũ trụ vạn vật.
         Người Do Thái và những nhà Siêu hình học Tây Phương đã lấy hình ngũ giác của vua Salomon ( Penta- gramme de Salomon ) để làm bùa chiêu phúc, tin rằng nó sẽ tạo ra ảnh hương phúc đức tốt lành."
Về bí quyết họa Bùa, nhà nghiên cứu này còn cho biết :
           Bí quyết của Thần chú là phải tĩnh tâm. Họa phù là Tâm vẽ ra hình, nét, tạo thành điện cảm. Cho nên bí quyết của sự họa phù là phải vẽ luôn một mạch, dồn ý chí vào nét vẽ, có thế mới phát sánh điện cảm ứng. Lúc họa phù phải nín thở, tập trung tất cả tâm ý vào ngọn bút để vẽ chính là ý nghĩa ấy.Tay vừa họa phù, miệng vừa niệm chú hèn theo nét vẽ, ấy là tập trung cả sức điện của tâm do tay và miệng phát ra.
Ngoài ra phải tuân theo mười điều giới răn khi họa phù: Bùa chú có đủ loại. Bạn có thể sưu tầm được nhưng bạn sẽ không thể nào áp dụng được, nếu bạn không biết phương pháp.
          Nhất là mười điều giới răn:
 - Khi Họa Phù, phải loại trừ tất cả vọng tưởng vọng
niệm trong tâm.
- Phải dẹp bỏ tất cả tà ý ( ý nghĩ quấy)
- Phải thành tâm thành ý
- Phải tập trung tâm ý vào mỗi việc sở cầu ( điều mong muốn này phải chính đáng)
Miệng phải sạch sẽ, tức là phải súc rửa cho tinh khiết .
- Tay phải sạch sẽ, nếu xông hương khử được càng
Tốt . 
- Bút mực phải mới tinh.
Phương hướng ngồi phải đúng ( có khi phải hướng
Nam có khi phải hướng Đông .
- Không được nóng nảy hấp tấp.
- Không được vẽ đi vẽ lại một nét.
- Miệng niệm Chú phải đồng nhịp với tay họa phù.
(Một hơi từ lúc phóng bút cho đến khi dứt chữ thì xong).
- Không được khạc nhổ, ho hen.
- Không được sửa đi sửa lại.
Giữ đúng những điều trên, chẳng những mười điều
giới mà thôi, tất cả đến mười ba giới.
Suy xét kỹ, chúng ta thấy gì? Mười ba điều giới đó.
đều có ý nghĩa lại tập trung tâm ý tư tưở và " thanh
tịnh thân khẩu ".
          Khi cả ba món THÂN, KHẨU và Ý được hoàn toàn trong sạch thì ĐỊNH vực phát hiện. Cũng như mặt nước yên lặng trong trẻo thì nhìn thấy đáy. Khi Định lực phát hiện thì tự nhiên có hiệu dụng, ta tạm gọi là Thần Lực vậy
 

Như ý ngũ hành phù
Phù này tuỳ nghi sử dụng trong mọi việc. Sức luyện càng cao thì diệu dụng càng lớn. Từ khoán sưng trặc, khoán dời ăn, huyết vận cho đến chữa tà , trấn nhà ếm đất đều được.
Tuy nhiên, cũng như hốt thuốc, ít bao giờ người ta dùng độc vị, sử dụng với những công năng lớn thì các thầy thường phối hợp nhiều đạo phù với nhau. Gọi là “Như ý” vì chữ phù xoay chuyển trong ý muốn của thầy, chữa bệnh cũng được mà hại người cũng được.
Photobucket
Chú:
- NAM MÔ 5 VỊ NGŨ HÀNH TRỢ LỰC CHO ĐỆ TỬ
- NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT. 


Bùa trị đau mắt và sốt rét!!!!!!
Phàm người tu luyện trên núi cao hoặc trong đồng vắng, họ luôn chuẩn bị tư thế đối đầu với tai nạn và tật bệnh. Tai nạn thì khó xảy ra đối với người tu, trừ phi có kiếp nạn hoặc làm chuyện tà vạy tới lúc bị báo ứng.
Cái mà người tu gặp phải nhiều nhất chính là bệnh tật. Những người mới lên núi, chưa quen phong thổ, chưa luyện thần lực, nhiễm khí núi ban đêm lạnh buốt xương, hít phải chướng khí mà sinh bệnh. Phổ biến nhất là bênh nóng lạnh và đau mắt.
Có hai cách chữa trị: một là dùng thuốc, hai là dùng phù. Thầy tu ở núi đa phần đều rành cả hai, thuận tiện cái gì thì sử dụng cái đó.
Dân ở thành phố sống trong tiện nghi vật chất, người có tiền khi bệnh một chút đã có bác sĩ đến tận nhà khám chữa, riết rồi trở thành nô lệ của những phát minh khoa học. Hãy xem, một con chó, con mèo ở quê khi bị bệnh, nó tự biết tìm các loại cây cỏ để nhai nuốt tự trị bệnh cho mình.
Tôi từng nghe các tiền bối kể, hàng tháng mỗi khi trăng tròn, con chuột đồng đầu đàn thường đánh nhau với rắn hổ. Nó bịn rắn hổ mổ cho nhiều nhát, đến lúc nọc ngấm vào thân, nó liền chạy đi tìm thuốc giải trong cỏ cây, sau đó quay lại đánh tiếp đến chừng nào rắn hổ bị cắn chết mới thôi.... Nhưng các con chó kiểng, mèo kiểng, chó cưng mèo cưng ở thành thị lại không bao giờ có được khả năng này. Chúng được chăm sóc sướng quá nên bản năng sinh tồn bị suy thoái dần...
Ngày rước, có lần tôi đưa khách vào tận các bản sâu trong rặng Trường Sơn, già làng sống thọ hơn trăm tuổi, ngồi cởi trần bên bếp lửa trong cái giá buốt của núi rừng, còn chúng tôi người nào cũng mũ trùm, áo gió... Đến khi cáo từ ra về, già làng bảo đừng về vì sắp có mưa to. Ai nấy đều ngơ ngác vì trời trong veo không có chút mây đen. Đến khi về nửa chừng, mưa rừng tuôn xối xả, chiếc xe Jeep bê bết sình lầy súyt tí nữa ngập luôn trong đám bùn đỏ đặc quánh của cao nguyên. Về đến khách sạn, ai nấy đều thè lưỡi sợ hãi…
Thôi thì ai mê tín vào khoa học cứ mê tín, còn tôi- khoa học tôi rất tin nhưng tôi tin cả bùa phép, ngãi nghệ, tin cả vào nhân quả. Kinh Thánh đã viết " Phúc cho những người nào chưa thấy đã tin" mà.
Chúc huynh đệ tập luyện thành công.
Photobucket

CÁCH LUYỆN: Như những phần trên.
CÁCH SỬ DỤNG:
- CẶP CHỮ PHÙ TRÊN DÙNG ĐỂ TRỊ CÁC BỆNH ĐAU MẮT. + ĐỌC CHÚ TRIỆU THẦN, KHÓAN VÀO NƯỚC MUỐI ẤM ĐỂ RỬA MẮT. SAU ĐÓ TIẾP TỤC ĐỌC CHÚ VÀ TƯỞNG CHỮ PHÙ THỔI VÀO HAI MẮT.
- CHỮ PHÙ DƯỚI DÙNG ĐỂ KHÓAN TRỊ NÓNG LẠNH, CÁC BỆNH VỀ RÉT...
+ ĐỌC CHÚ TRIỆU THẦN RỒI KHÓAN VÀO GIỮA LƯNG ( GIỮA 2 GÙ VAI) SAU ĐÓ TIẾP TỤC KHÓAN LẦN HAI VÀO GIỮA NGỰC. 


Bùa trấn an, trấn trạch, trừ tà!!!

http://trinhanmenh.vnweblogs.com/gallery/7012/tran%20trach.jpg



http://trinhanmenh.vnweblogs.com/gallery/7012/tru%20ta.jpg
Ba chữ phù này có thể sử dụng chung , tùy từng trường hợp mà sử dụng, trước khi dùng cần nguyện Tổ, vẻ phép, họa lại bằng nhang hoặc lưởi, đọc chú thổi vào phù. 


Phép nuôi trẻ!!!!
Photobucket
Với điều kiện vật chất văn minh phát triển như hiện nay, việc nuôi con nít bằng bùa phép có lẽ không còn sử dụng nhiều. Có chăng là ở những vùng sâu hẻo lánh, nơi mà ánh sáng văn minh khoa học chưa kịp về đến, người ta không biết tin vào đâu nên phải dựa vào thần quyền nhằm bảo hộ sinh mạng đứa trẻ đó thôi.
Còn ở giữa chốn phồn hoa đô hội, tiệm thuốc mọc đầy, bác sĩ dược sĩ tràn lan, chuyện đeo bùa giữ mạng cho con trở thành hiếm có.
Hãy tưởng tượng xem, nếu cho một đứa trẻ nào đó ra đường đeo tòn ten sợi chỉ đỏ có may cái túi đựng bùa, chắc là ba mẹ và bản thân đứa trẻ đó sẽ xấu hổ lắm.
Thật ra, sau này phép tắc cũng trở nên quyền biến hơn rồi. Người ta thường thay sợi chỉ đỏ bằng dây chuyền vàng, chữ phù thay vì viết ra giấy để đeo thì ông thầy tơm vào trong miếng vàng. Sau 3 tháng tơm lại một lần cũng được.
Nếu tôi còn làm thầy, chắc là tôi cũng phải làm một cuộc "cách mạng" như thế mới mong duy trì được pháp ấn của tổ sư...
Dù vậy, tôi vẫn gửi lên để mọi người tham khảo chữ phù nuôi con nít. Biết đâu sau này huynh đệ có về những vùng khỉ ho cò gáy, con nít bệnh hoạn nhiều mà mình không có đủ thuốc thang giúp đỡ, mình có thể làm phép này để bảo mạng hài nhi. Nếu không thì... sưu tầm cho biết vậy thôi.
Chữ bùa này dùng để cúng bệnh cho con nít khóc đêm.

Sau khi vẽ ra, tơm lại 7 lần hoặc 9 lần tuỳ theo con nít là nam hay nữ. Niệm bài chú triệu thần xin cúng cho đứa trẻ. Chữ bùa được vẽ vào giấy vàng, mực đỏ. Đặt bùa lên dĩa, để lên bàn thờ Phật cúng hương đăng trà quả 3 ngày rồi may 2 cái túi cho đeo ở 2 cổ tay.
Người có lòng tin và muốn thực hiện, sau này có dịp tôi sẽ nói rõ hơn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.