BÙA LỖ BAN VÀ THUẬT ẾM NHÀ NGÀY XƯA.
BÙA LỖ BAN VÀ THUẬT ẾM NHÀ NGÀY XƯA.
Lời giới thiệu : Ngày
xưa, trong khi làm nhà , những người thợ và chủ nhà thường phát sinh
những mâu thuẫn vì những người thợ lúc đó có địa vị rất thấp , chủ nhà
không chỉ tiếp đãi họ qua loa sơ sài mà còn cắt giảm tiền công , thậm
chí còn đánh , chửi họ. Để bảo vệ cho những lợi ích của mình và trừng
trị những người chủ nhà bất nhân , trong những người thợ đó có những
người học theo phép của Bùa Lỗ Ban,đã sử dụng Bùa Lỗ Ban để ếm căn nhà
họ vừa xây dựng , kiến cho chủ nhà suy sụp , thậm chí chết tuyệt nọc cả
nhà. Có những truyền thuyết nói rằng , những người thợ biết dùng Bùa Lỗ
Ban , cứ 10 nhà họ phải ếm một nhà để nuôi Tổ nghề. Gặp phải nhà thứ 10
đối xử tốt với họ, những vị thày Lỗ Ban đó phải dựng một căn nhà giả và
ếm vào đó , sau đó đốt đi mới khỏi bị Tổ hành. Có rất nhiều truyền
thuyết trong dân gian nói về việc các người thợ ếm nhà và hậu quả xảy ra
vô cùng thảm khốc cho gia chủ. Thực hư sự việc như thế nào , dienbatn
cùng các bạn tìm hiểu nhé. dienbatn.
1/ LỊCH SỬ CỦA LỖ BAN.
Lỗ Ban (hoặc) được
xem là ông tổ của nghề mộc và nghề xây dựng. Có vài thuyết về lai lịch
của ông. Lỗ Ban là thợ mộc giỏi của nước Lỗ (nay là tỉnh Sơn Đông) thời
Xuân Thu (770-476 TCN). Tên ông là Ban (hoặc), họ là Công Thâu (cũng đọc
Công Du) . Lỗ Ban nghĩa là “ông Ban người nước Lỗ”.
Tượng thờ Lỗ Ban ở Đài Loan. Chân tượng có khắc chữ
Xảo thánh Tiên sư , tức là Lỗ Ban Công . (http://taipedia.cca.gov.tw).
Xảo thánh Tiên sư , tức là Lỗ Ban Công . (http://taipedia.cca.gov.tw).
E.T.C. Werner (A
Dictionary of Chinese Mythology) cho rằng Lỗ Ban sinh năm 506 TCN. Cha
là Công Thâu Hiền. Công Thâu Ban thuở trẻ là thợ giỏi về các loại vật
liệu như gỗ, đá, kim loại. Năm 40 tuổi ông ở ẩn trên núi Lịch Sơn, tu
luyện pháp thuật.
Một thuyết khác cho rằng
Lỗ Ban là người Đôn Hoàng , Túc Châu (nay là huyện Đôn Hoàng, tỉnh Cam
Túc), thời Chiến Quốc (475-221 TCN). Ông có tài nghệ tinh xảo, chế tạo
diều gỗ cho người ngồi trên đó bay đi do thám thành trì nước Tống.
Một thuyết khác lại cho
rằng ông tên là Công Thâu Ban, thường gọi là Công Thâu Tử , vốn là con
của Lỗ Mục Công (có sách chép là Lỗ Chiêu Công). Tương truyền Công Thâu
Tử chế tạo nhiều loại máy móc, có thể dùng trong tác chiến, thí dụ như
thang mây (vân thê) bắc lên tường thành để công phá thành. Mặc Tử là
người chủ trương phản chiến, từng đánh bại Công Thâu Ban về kỹ thuật
công phá thành. Sách Mặc Tử, thiên Công Thâu chép: “Công Thâu Ban làm
thang mây cho nước Sở xong, sắp đem đi đánh Tống. Mặc Tử nghe tin, bèn
đi suốt mười ngày mười đêm từ nước Lỗ đến kinh đô của nước Sở để yết
kiến Công Thâu Ban. [...] Mặc Tử cởi đai lưng giả làm thành, lấy thẻ tre
giả làm khí giới. Công Thâu Ban chín lần bày cách đánh thành giả ấy
nhưng Mặc Tử chín lần cự lại. Công Thâu Ban dùng hết khí giới đánh thành
mà Mặc Tử thì còn cách chống giữ. Công Thâu Ban chịu thua”.
Theo các thuyết trên, từ
điển Từ Hải nói nên xem Lỗ Ban và Công Thâu Ban là hai người khác nhau.
Trong dân gian thường truyền tụng về sự linh nghiệm của bùa Lỗ Ban,
thước Lỗ Ban, v.v... Thợ mộc và thợ xây dựng thờ Lỗ Ban làm tổ sư, ngày
vía là 13 tháng 6 Âm lịch.
LỖ BAN TỔ SƯ
Lỗ Ban: Người thầy vĩ đại về kiến trúc và nghề thủ công
* Tác giả: TÂN ĐỊCH
* Tác giả: TÂN ĐỊCH
Nền văn minh Trung Quốc
không chỉ là một trong những nền văn minh cổ xưa nhất trên thế giới, nó
còn là nền văn minh đã trải qua mà không có sự gián đoạn. Từ thời cổ
xưa, suốt các thời đại kế tiếp, bằng sự chuyển sinh làm người, các chư
thần tiếp tục trao truyền sự kế thừa văn hóa phong phú cho người Trung
Quốc. Tục ngữ dân gian Trung Quốc có câu, “Trong 360 nghề, nếu một nghề
mà không có người sáng lập, thì nghề đó không thể đứng [tồn tại] với
thời gian”. Người sáng lập của mỗi một nghề thật sự là sự chuyển sinh
của chư thần, người mà đến xã hội [con người], trực tiếp hoặc gián tiếp,
sáng tạo ra nghề đó. Ở Trung Quốc, văn hóa dân gian dần dần phát triển
khái niệm mà mỗi một nghề đều suy tôn người sáng lập và xem ông ta như
“thần bảo hộ”.
Môi trường sống của
người Trung Quốc, bao gồm nội thất, nhà cửa, thành phố và tất cả, có thể
được nhận thức qua một phản ánh trực tiếp nền văn minh của họ. Văn hóa
của kiến trúc truyền thống ở Trung Quốc phong phú và đa màu, rộng mở và
uy nghi. Lịch sử Trung Quốc về văn minh được giảng dạy bởi nhiều chư
thần trong thời cổ xưa, ví dụ như Hữu Sào và Đại Vũ, và vì thế có thể
nói rằng kiến trúc cũng là phần của một văn hóa bán thần Trung Quốc.
Trong số những bậc thầy kiến trúc, người nổi tiếng nhất là Lỗ Ban thời
Xuân Thu. Nghề thủ công của ông đã lưu truyền hàng nghìn năm, giành được
sự kính trọng. Thợ mộc, thợ xây, thợ nề, các nhà chế tạo công nghệ xây
dựng và nội thất tất cả đều suy tôn Lỗ Ban như là người sáng lập của
nghề này. Theo một sách từ triều nhà Đường tên là “Nghiên cứu của Lỗ
Ban”, các công nhân xây dựng đã khấu đầu lạy tạ Lỗ Ban trước khi họ bắt
đầu thiết kế xà trên của nhà. Trong đời nhà Tần, bất cứ khi nào khi
chính phủ bắt đầu một dự án xây dựng to lớn, họ dâng quà và cúng [bái]
Lỗ Ban, cầu nguyện chư thần sẽ ban phước lành cho dự án của họ. Điều này
vẫn còn là một phong tục ở Đài Loan ngày nay.
“Bậc thầy về thủ công”
Lỗ Ban sinh ra ở nước
Lỗ. Tên thật là Công Du (cũng đọc Thâu) Ban, cũng còn gọi là Công Du Tử.
Tên cách điệu [đồng âm] là Ban Ban, nhưng ông được nhắc thường nhất
[như] là Lỗ Ban. Ông là một kỹ sư xây dựng nổi tiếng và thợ thủ công
trong lịch sử Trung Quốc và từng một lần làm quan trong bộ xây dựng.
Lỗ Ban sinh vào buổi
chiều ngày 7 tháng 5 năm 507 trước Công nguyên. Lúc ông được sinh ra,
những con sếu tụ tập cùng nhau và mùi thơm kỳ lạ lan tỏa khắp ngôi nhà.
Người dân tất cả đều ngạc nhiên bởi điều đó. Đó là [dấu hiệu] điềm lành
mà một chư thần sắp chuyển sinh vào thân người. Khi ông còn trẻ, ông
không thích đọc và viết. Thay vào đó, ông rất quan tâm đến thủ công như
là điêu khắc. Vào khoảng 15 tuổi, ông đột nhiên tỉnh ngộ về mục đích
cuộc sống của ông và đi học với Đoan Mộc. Sau nhiều tháng học hỏi thông
suốt, ông đã tinh thông nghề này. Lỗ Ban lui tới nhiều nước khác nhau,
muốn trông nhờ [hay chú ý đến] nước Chu (một nước lúc bấy giờ), nhưng
những nước này không nghe lời ông. Vì thế ông từ giã [cuộc sống] xã hội
và sống ẩn dật ở phía Nam Đái Sơn, cũng được biết như “Tiểu Dương Sơn”.
Mười ba năm trôi qua. Một ngày nọ, ông ra ngoài và chạy đến chổ Cựu Bao.
Họ hàn huyên với nhau khá lâu. Cuối cùng, Lỗ Ban nhận Cựu Bao làm thầy
và học điêu khắc và vẽ. Lỗ Ban muốn mang đến một viễn cảnh hoàn toàn mới
cho văn hóa Trung Quốc. Lỗ Ban học với sự tập trung mạnh mẽ, học làm
mộc, chạm đá, và những kỹ năng khác. Ông sáng tạo nhiều công cụ kỳ diệu
và dạy nhiều học trò.
Những sách của Hàn Phi
Tử, Hoài Nam Tử, Luận Hành, Mặc Tử tất cả đều ghi chép rằng Lỗ Ban đã
làm một con chim gỗ. Sau khi Lỗ Ban thiết kế cho nó bay, con chim đã
[bay] lên không trung trong vòng 3 ngày. Trong sách Hồng Thự, nói rằng
chim gỗ đã mang một người lên không trung làm gián điệp bên quân địch.
Thiết kể đơn giản này là bước mở đầu cho máy bay trinh thám ngày nay.
Có ai biết rằng con chim gỗ này cũng sẽ dẫn đường cho Lỗ Ban làm những người gỗ bất tử?
Theo sách “Nghiên cứu
của Lỗ Ban”, Lỗ Ban làm ra chim gỗ bay đến nước Chu để tìm người chị của
mình. Người cha của Lỗ Ban rất lo lắng đi tìm con gái của mình nên ông
quyết định đi cùng chim gỗ mà không nói với Lỗ Ban. Vì cha Lỗ Ban không
biết cách lái nó, con chim gỗ đã rơi vào nước Vũ. Người dân nước Vũ muốn
giữ cha Lỗ Ban làm con tin để buộc Lỗ Ban làm cho họ một con chim gỗ.
Cha Lỗ Ban từ chối đề nghị của chúng và đã bị giết. Lỗ Ban sau đó đã làm
một người gỗ bất tử để trả thù cho cái chết của cha. Ngón tay của người
gỗ bất tử chỉ đến nước Vũ. Điều đó tạo cho nước Vũ chịu một nạn hạn hán
kéo dài 3 năm. Khi người dân nước Vũ hiểu ra điều này, họ ban tặng rất
nhiều quà cho Lỗ Ban và xin lỗi về việc làm sai trái của họ. Lỗ Ban nhân
từ đã tha thứ cho họ. Sau đó ông ta cắt cái ngón của người gỗ bất tử và
làm những phép thần thông. Mưa lập tức rơi trên nước Vũ.
Lỗ Ban cũng đã làm ngựa
gỗ mà có thể đi bộ trên đất một cách tự động. Đây là một dạng thức sớm
nhất của “xe máy” được ghi chép. Trong thời Tam Quốc, Gia Cát Lượng đã
sử dụng những con ngựa của Lỗ Ban để vận chuyển lương thực. Tuy nhiên,
kỹ thuật này sau đó đã mất.
Lỗ Ban chăm lo cho gia
đình của mình rất nhiều, và điều này cũng tạo cảm hứng cho ông phát minh
ra nhiều công cụ đáng quý. Ví dụ, khi Lỗ Ban lần đầu tiên vẽ một đường
sử dụng modou (một vật đánh dấu bằng mực của thợ mộc), ông đã nhờ mẹ ông
giữ đoạn cuối của sợi dây. Sau đó họ hoàn thành công việc cùng nhau.
Sau này, ông không muốn mẹ ông mệt vì phải luôn giúp ông, vì thế ông làm
một cái móc cuối sợi dây để mẹ ông không phải giữ nó thêm nữa. Để tưởng
nhớ đến lòng hiếu thảo của Lỗ Ban, những người nối nghiệp đã đặt tên
cái móc đó là Ban Mẫu (Ban Mu) hay là Mẫu Câu (Mu Gou) (Mu nghĩa là mẹ
trong tiếng Hoa). Một ví dụ khác là khi Lỗ Ban lần đầu tiên bào gỗ, ông
nhờ vợ ông giữ đoạn cuối của miếng gỗ để nó không bị trượt ra ngoài cái
ghế dài. Để tạo điều kiện vợ ông lo sóc những việc nhà, ông đã đóng một
miếng gỗ nhỏ trên ghế dài để ngăn thanh gỗ không trượt về phía trước. Vì
thế những người nối nghiệp sau đó đặt tên thiết bị này là Ban Thê (Ban
Qi) (Qi nghĩa là vợ trong tiếng Hoa)
Lỗ Ban cũng làm ra nhiều
công cụ mộc khác cho người Trung Quốc, ví dụ như móc khoan (drilling
hook), máy xay đá, xẻng, dụng cụ đo góc, mudou và thước. Người ta nói
rằng Lỗ Ban đã phát minh ra cái cưa sau khi tay của ông bị cắt bởi mảnh
lá cỏ. Lỗ Ban cũng tạo ra thang [phá thành trong chiến tranh] và 9 dụng
cụ sử dụng trong chiến tranh. Ông cũng làm ra bản đồ đo vẽ địa hình 3
chiều từ sớm - Cửu Châu Đồ - được đánh giá cao bởi các hoàng đế Trung
Quốc trong lịch sử. Thông qua những phát minh của mình, Lỗ Ban đã mang
những lợi ích to lớn cho người dân.
Tuy nhiên, những đóng
góp to lớn của Lỗ Ban không phải là những thứ mà ông đã xuất sắc trong
việc tạo ra những công cụ này, kỹ năng và thiết bị cơ khí. Quan trọng
hơn, Lỗ Ban đã đi theo Đạo. Lỗ Ban nói, “Trời và Đất không cần compa hay
bảng đo góc để làm nên vòng tròn hay hình vuông. Nhưng khi đến thế
gian, con người cần có compa để vẽ vòng tròn và cần bảng đo góc để vẽ
hình vuông. Vũ trụ và những việc của nó đã ở trong Đạo rồi, nhưng loài
người thì đi xa Đạo. Vì thế loài người cần compa và bảng đo góc để vẽ
vòng tròn và hình vuông.” Vì chúng ta có thể nhìn thấy điều mà Lỗ Ban đã
trải qua cùng với kỹ năng của ông, ông cũng cảm thấy mình đã không có
lựa chọn. Con người cần công cụ vì họ xa Đạo. Dĩ nhiên, thông qua việc
học những công cụ này, những gì Lỗ Ban dạy đã giúp con người quay về với
tiêu chuẩn của con người.
Nếu Lỗ Ban đã không tạo
nên những công cụ này, và nếu những người nối nghiệp của ông cũng không
có cũng những tư tưởng sáng tỏ như Lỗ Ban, thì những kỹ năng của Lỗ Ban
có lẽ đã mất đi. Vì thế, Lỗ Ban phải phát minh những công cụ thủ công để
họ có thể đi qua cùng với các thế hệ.
Khoảng 40 tuổi, Lỗ Ban
quay về sống ở núi, ở đó ông đã gặp một vị thần. Vị thần này đã dạy ông
một vài điều huyền bí. Sau đó, Lỗ Ban đã đi khắp nơi trên thế giới. Cuối
cùng, khi ông 70 tuổi, ông đã bay lên giữa bạch nhật. Cái rìu và cưa
của ông để lại trên Bạch Dương Nham. Các bạn vẫn có thể thấy những di
tích cổ xưa này. Sách “Nghiên cứu của Lỗ Ban” là cuốn sách truyền tay
duy nhất qua các đời đến hôm nay đã ghi chép về nhà cửa, nội thất, nông
nghiệp và nghề thủ công vào thời của Lỗ Ban. Khởi đầu, sách được lưu
truyền bằng miệng giữa những thợ thủ công trong hình thức những công
thức súc tích. Suốt đời nhà Minh, cuốn sách cuối cùng đã được viết
xuống. Vì khung nhà cổ xưa được làm bằng gỗ, cuốn sách đã ghi chép rất
nhiều kỹ thuật về nghề mộc. Nó cũng bao hàm nhiều thứ liên quan đến
Phong Thủy và thuật tử vi của Đạo gia, mà thể hiện tư tưởng Trung Quốc
nơi mà tự nhiên và con người nên hài hòa với nhau.
Theo suốt thời gian,
những thợ thủ công đã kế thừa những lời dạy của Lỗ Ban. Vào lúc sơ khai
của việc đào tạo những người tập sự, ông chủ trương rằng việc quan trọng
nhất không phải là làm sao học cách để sử dụng công cụ, thay vào đó,
học những tiêu chuẩn đạo đức để cư xử đúng đắn, học trở nên tốt với
người khác và nghiêm khắc với bản thân. Hơn nữa, một người nên học cách
tập trung, học cách tu luyện lý trí của mình, để hài hòa trí của người
đó với tâm của họ. Những yêu cầu cho tâm và trí sẽ giúp một người đạt
được tư tưởng trong sạch và tinh khiết. Với một tư tưởng như thế, khi
một người làm một dự án, anh ta có thể quên chính mình và tập trung vào
công việc, hợp nhất công việc với Đạo. Dưới những nguyên lý chỉ đạo này,
theo suốt thời gian đã xuất hiện nhiều thợ thủ công nổi tiếng.
Ví dụ, một thợ thủ công
sống trong thế kỷ thứ 2 trước công nguyên là học trò của Lỗ Ban. Ông ta
đã sáng lập nên công nghệ lát gạch và phát minh công cụ cho việc lát
gạch và dạy chúng cho người dân. Ông được gọi một cách kính trọng là
“Bậc Thánh Liên Hoa”, hay là “Bậc Thánh [về] Đường Kẻ”. Theo một thần
thoại, Bậc Thánh Liên Hoa [là một sự] chuyển sinh từ một vị thần. Lúc
đầu, ông dạy người ta làm cách nào để làm ngói lợp nhà. Sau đó, càng
nhiều người đến học ông. Hơn trên nữa về những kỹ năng vượt qua khỏi mức
bình thường, họ đề nghị ông nhận họ làm những người học trò một cách
chính thức. Bậc Thánh Liên Hoa nói “Nếu các chư vị muốn tôi làm thầy,
hãy theo tôi”. Sau đó ông nhảy vào lò nung gạch và bay đi như một vị
thần bất tử. Sau đó, người ta mới nhận ra rằng ông là một vị thần. Vì
những lời dạy của Bậc Thánh Liên Hoa, trong lịch sử Trung Quốc, triều
đại Tần và triều đại Hán đã rất nổi tiếng về gạch và ngói của họ.
Các hoàng đế suốt các
triều đại văn minh Trung Quốc đã ban tặng nhiều danh hiệu về Lỗ Ban. Ví
dụ, trong triều đại Minh, hơn 10 nghìn người đã xây Long Phủ Bắc Kinh,
một dự án khổng lồ mà chỉ có thể được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của
những chỉ dẫn của Lỗ Ban. Người dân thời kỳ ấy đã xây một đền tưởng nhớ
đến Lỗ Ban. Những ghi khắc trên bia trong đền đọc là “Lỗ Ban Quan”.
Hoàng đế thời đó đề tặng câu “quý nhân phò [trợ] quốc.” Người dân dùng
Thái Lao để tổ chức kỷ niệm Lỗ Ban 2 lần trong năm. Thái Lao nghĩa là họ
sử dụng bò cái, dê, lợn cho buổi lễ. Nó giống như một lễ lớn như được
tổ chức cho Khổng Tử. Có 2 mục đích xây dựng đền Lỗ Ban. Một là cảm ơn
Lỗ Ban, còn lại là để khi các thợ thủ công khi có vấn đề trong công việc
của họ, họ có thể đến đền để nhờ [hỏi] Lỗ Ban cho họ một chỉ dẫn.
Lỗ Ban đã ảnh hưởng đến
cuộc sống của mỗi người, và công cụ của ông vẫn còn được sử dụng ngay cả
đến ngày hôm nay. Trong các triều đại sau thời của Lỗ Ban, các thành
phố, nhà, cửa chính, cửa sổ tất cả đều “đúng trật tự”. Lỗ Ban giúp chúng
ta sống an toàn và thoải mái. Hơn nữa ông dùng môi trường sống này để
truyền đạt lại tiêu chuẩn và cách cư xử đến người dân Trung Quốc. Điều
này giúp giữ được chuẩn mực đạo đức cho dân tộc Trung Hoa hơn 5 nghìn
năm.
Ngày nay, các quan chức
Trung Quốc đang theo đuổi những thiết kế nhà cửa kỳ quái và quy hoạch
hóa đô thị. Nó phản ảnh sự xáo trộn xã hội của Trung Hoa hiện đại ngày
nay. Sự đổi mới không có nghĩa là từ bỏ những nguyên lý của một nghề.
Chỉ có sự quay về với những nguyên lý được để lại bởi các chư thần, xã
hội chúng ta [mới] có thể sống trong hòa bình, hài hòa và phồn vinh.
Nguồn:http://www.zhengjian...9/22/54955.html
2/ BÙA CHÚ CỦA NGƯỜI THỢ.
Người thợ thường dùng
bùa chú ở những nơi không có người để người khác không nhìn thấy được.
Khi giở Bùa chú phải nhìn chăm chú vào lá bùa sau đó mới được thực hiện.
3/PHƯƠNG PHÁP GIẢI BÙA CỦA CHỦ NHÀ.
Khi làm nhà, thợ đá ,
thợ xi măng và thợ mộc thường làm các loại bùa để đầu độc , yểm ma hoặc
làm hại chủ nhà. Để hóa giải , vào ngày bắc xà( gác đòn dông -dienbatn),
phải dùng 3 thứ súc vật trâu, dê , lợn để làm đồ lễ tế, ngoài ra phải
chuẩn bị một bức hoành phi, báo cáo lên các vị Tướng, Thần và vị Sư Tổ
Lỗ Ban rồi bí mật viết nội dung một lá Bùa với câu niệm chú : " Ác tương
vô tri, cổ độc yểm ma, tự tác tự đương, chủ nhân vô thương " Sau khi
niệm thầm xong 7 lần, người thợ làm lá bùa hại người đó sẽ gặp tai họa.
Ngoài ra còn phải niệm :" Ngã phụng Thái Thượng lão quân sắc lệnh, tha
đích chế tác đối ngã một hữu phòng ngại, nguyện bách vật hóa vi cát
tường, cấp cấp luật lệnh ". Sau đó đem lá bùa đốt ở chỗ không có người,
không được để cho người khác nhìn thấy, giấu màu đen vàng và máu chó vào
trong rượu, khi bắc xà , đem rượu này rắc lên đầu người thợ , rắc liên
tiếp 3 chén, rượu còn lại chia cho thợ thuyền cùng uống. Như vậy người
thợ yểm bùa, yểm ma sẽ phải chịu hậu quả từ chính hành động của mình,
trong khi mọi việc của chủ nhà vẫn có thể gặp may mắn và thuận lợi.
( GIẢI THÍCH ) .
Phép thuật do những
người thợ thực hiện thường có thể khiến cho chủ nhà nảy sinh áp lực về
tâm lý , vì vậy thời xưa khi xây nhà , sau khi chủ nhà và thợ phát sinh
ra mâu thuẫn , chủ nhà sợ thợ cố ý dở trò ma mãnh trong quá trình xây
dựng nên đã áp dụng biện pháp giải bùa như trên. Có một cách giải bùa
khác nữa là : Chủ nhà vừa cầm một chiếc rìu gõ vào một thanh gỗ đặt giữa
nhà và niệm chú : " Đảo hảo, đảo hảo , trụ thử trạch nội, thế thế ôn
bão ".
Sau khi xây xong toàn bộ
ngôi nhà , chủ đặt một chậu nước ở trong phòng, tất cả mọi người ở
trong nhà đều cầm một cành liễu, nhúng vào nước rồi vẩy quanh phòng, vừa
đi vừa niệm thần chú : " Mộc lang mộc lang, viễn khứ địa phương, tác
giả tự thụ, vi giả tự thường, sở hữu yểm ma, vu ngã vô can, Cấp cấp như
Thái Thượng Lão Quân lệnh sắc ".
Vào thời xa xưa, bùa chú
bị cho là có sức cảm ứng, hoặc lệnh cấm đối với quỷ thần hoặc giới tự
nhiên, Khi thực hiện bùa thuật, Đạo sĩ thường dựa vào một số vật môi
giới nào đó, chẳng hạn như nước bùa. Người xưa cho rằng, những thứ đã
qua làm phép thuật này, cũng có ma lực của bùa thuật.
Bùa chú được vận dụng
rông rãi trong Đạo giáo. Bùa chú của Đạo giáo thường dùng những từ ra
lệnh như " như luật lệnh", "cấp cấp như luật lệnh". Thái Thượng Lão Quân
cấp cấp như luật lệnh ",...
Nguyên nhân là do Đạo
giáo được thành lập từ đời nhà Hán, các chiếu thư và bài hịch đời nhà
Hán thường có các từ :"như luật lệnh". "như luật lệnh" có ý chỉ việc
chấp hành pháp lệnh, về mặt ngữ khí , cụm từ này mang ý nghĩa " kẻ phạm
luật phải bị truy cứu đến cùng ". Những cụm từ chính thức mô tả quyền uy
của pháp luật và chính lệnh trước hết được tiếp nhận bởi các thày cúng
dân gian, sau đó được truyền lại cho dân gian.
Trong nghi thức thực
hiện pháp lệnh của Đạo giáo, người ta thường đọc các câu bùa chú, bấm
ngón tay niệm thần chú hoặc Bộ Cương....chúng cùng với thư phù trở thành
một thủ đoạn cơ bản của Đạo pháp. Bản thân những phép thuật này , có
tác dụng giúp đỡ con người duy trì được sự cân bằng về tâm lý và niềm
tin vào cuộc sống, trước sức mạnh phi thường không thể khống chế.
Trong " Đẩu pháp" giữa những người thợ và chủ nhà , ta có thể thấy rất nhiều yếu tố mê tín.
Loại bùa này được viết bằng nguyên liệu màu hồng, sau đó được đem dán lên xà chính.
Phương pháp vẽ bùa bằng
chu sa: Trước tiên viết tên người trong nhà vào trong phần vòng tòn màu
đen, sau khi viết xong lại dùng mực xóa sạch, dùng tay trái dán bùa ,
trèo thang lên dán vào xà chính, khi dán không được nói chuyện phiếm với
người khác . Dán xong xuống thang , bày Thanh Long Thần vị và trà ,
gạo, thức ăn, tiếp đến là hoá vàng( đốt tiền giấy ), sau đó làm yên lòng
các bậc Tiên , Thánh trong gia môn, đón Thổ địa, Táo quân về an vị,
niệm :'An gia đường chân ngôn ".
XÁC ĐỊNH KẾT CẤU VA PHƯƠNG VỊ TINH BÀN.
Xác định kết cấu và
phương vị là cơ sở của Phong thủy trong kiến trúc, cũng là một bước quan
trọng để đóan định cát hung của nhà cửa. Nếu xác định sai phương vị thì
toàn bộ tinh bàn sẽ sai. Trong Phong thủy có 24 phương, mỗi hướng chỉ
có 15 độ. Phong thủy học chia hướng nhà và hướng cửa ra vào làm hai khái
niệm và hai khái niệm này đều được coi trọng.
[ Giải
thích ] : Tư mệnh Lục Thần bao gồm 6 vị Thần là : Thanh Long , Thiên Đức
, Ngọc Đường, Tư Mệnh, Minh Đường và Kim Quỹ. Ngày có Lục Thần
chiếm đóng được gọi là ngày tốt, ngày Hoàng đạo. Vào ngày này , làm việc
gì cũng có thể được may mắn , thuận lợi , vạn sự như ý, không cần phải
tránh hung kị.
PHƯƠNG PHÁP GIẢI TRỪ TAI ƯƠNG CHO GIA TRẠCH CÓ NHIỀU QUỶ THẦN VÀ TAI HỌA.
Khi trong nhà có nhiều
quỷ thần , tai họa hoặc có tà thần dã quỷ do người ngoài từ nơi khác đem
tới, người trong nhà có thể sẽ bị quỷ thần làm cho mê muội hoặc gây tai
họa, tà quỷ ẩn dấu hình dáng , tác oai tác quái , thoắt ẩn thoắt hiện
từ nơi này sang nơi khác , giả làm miệng người bệnh, đòi ăn , đòi uống.
Nếu thấy xuất hiện tình trạng này có thể dán 12 lá bùa, tính theo phương
của tinh bàn . Dán bùa theo phương pháp này , tai họa do ma tà gây ra
sẽ nhanh chóng tự rời bỏ và bị loại trừ vĩnh viễn, từ đó, vật bị ma quỷ
làm cho điên loạn sẽ không thể gây ra tai họa cho chủ nhà .
Phương pháp xác định
kết cấu và phương tinh bàn trên đều là phương pháp dán bùa. Giả dụ như
trong một năm trước Lập xuân, chia thành tiết khí của 12 tháng, khi Lập
xuân đi qua, tức là vào tháng Giêng, thì lá bùa đầu tiên sẽ được dán ở
phương chính Đông.Nếu không gặp được Lập xuân thì bắt đầu dán ở phương
Đông Bắc. Dán ở các phương chính Đông, chính Tây , chính Nam , chính Bắc
mỗi phương 2 lá bùa, các phương Đông Nam , Đông Bắc, Tây Nam,Tây Bắc,
mỗi hướng dán một lá , không được dán sai. Ner61u dán sai thì lá bùa dán
không còn tác dụng.
Ngũ lôi Địa chi linh phù được thu thập và biên soạn trong sách gốc sau : Vạn linh bảo phù - loại phù dùng để hóa giải những vật bị quỷ thần mê hoặc.
Câu niệm chú : Hống hống ni am kha( ha) hạ ma ca mu khiếu thạch diệp cấp cấp như tát công chân nhân luật lệnh "
Trong đó có thêm 5 bùa Ngũ lôi , với câu thần chú : Xuất ".
NGŨ LÔI ĐỊA CHI LINH PHÙ:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.